Đề bài: Phân tích vai vợ của nhân vật Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Viết về người nông dân và nạn đói năm Ất Dậu 1945, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc và độc đáo. Kim Lân viết truyện này ngay sau Cách mạng tháng Tám; Đầu những năm 60, tác giả viết lại, đổi thành “Vợ nhặt”.
“Vợ nhặt” kể về câu chuyện của chú Tràng, một người nghèo, ở trong xóm, làm nghề kéo xe bò, giữa nạn đói vẫn còn khó khăn để nuôi sống bản thân, nhưng chú dám tự hào và dám làm đi đón vợ! Kim Lân đã tạo ra một tình huống “nhặt vợ” rất hấp dẫn, đồng thời sử dụng một cách tinh tế ngôn ngữ chân quê, phân tích tâm lí nhân vật, từ bà cụ Tứ đến anh Tràng, vợ Tràng, nhân vật nào cũng chân thực và cảm động.
Nhân vật vợ Tràng được miêu tả với những nét ám ảnh, đáng thương có vai trò làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Có một nạn đói khủng khiếp đang diễn ra. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vút như mây đen trên trời. Những đoàn người đói khổ từ vùng Nam Định, Thái Bình đắp chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, tản mác khắp các lều chợ. Mùi xác chết. Thị cũng đói bụng “ngồi chơi xơi nước” với chị em trước cửa nhà kho. Không tên, không quốc gia, không tuổi. Cha mẹ và anh chị em của bạn có chết đói không? Cái đói đã lấy đi tất cả. Lần đầu tiên nghe Trang hô “muốn ăn cơm trắng mấy cạch…”, cô đã bị “bạn bè xô đẩy”. Thị “cười như điên” nói với Trang: “Này cả nhà ơi, mày nói thật hay khoác lác vậy?”. Thị “nhìn tôi cười” khiến ông Tràng “thích lắm”. Thời gian sau, khi gặp lại Trang, mọi chuyện đã thay đổi hoàn toàn. Quần áo cô tả tơi tả tơi như một ổ đỉa. Thị trở nên gầy gò. Khuôn mặt xám xịt của người thợ cày chỉ còn nhìn thấy hai con mắt. Dưới chân thành phố là vực thẳm, đang chết đói! Thị “ngậm ngùi” trách Tràng là “đồ giả tạo”, “miệng hẹn mà mất mặt!”. Thấy Trang vỗ túi khoe “rik ho cu”, hai con mắt “sưng sừ” lập tức sáng lên. Thị “làm” với anh trai Trang: “Ăn thật đấy!”. Thị ăn liền bốn bát bánh vừa thở vừa khen: “Ha, ngon quá!”. Cũng biết bông đùa, biết chọc ghẹo như bao cô gái khác, bà nói với Trang một cách rất nịnh nọt: “Nó nhớ bố thì bỏ bố đi!”. Chỉ một câu bâng quơ của Tràng “anh chưa có vợ…” là Trang hùa theo ngay, “chị về thật rồi”. Khi đứng trong căn nhà “trống… xơ xác” của mẹ con Tràng, Mị đảo mắt nhìn quanh, thất vọng “bộ ngực gầy ưỡn ra, cố nén tiếng thở dài”.
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói, đối đáp vừa vòng vo, vừa lỗ mãng, thô lỗ. Thị đã nhịn ăn nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là chắc chắn. Thị cần ăn để sống. Thị cần chỗ ở để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của cô gái đã bị cướp đi, bị bao phủ bởi nạn đói, cái đói khủng khiếp. Thị khác với người ăn xin đó:
“Ai là ăn mày? Ăn mày là ta!
Cơm đói áo rách hóa ra là ăn mày!”
(Dân gian)
Bản chất của cô gái không tên chết đói này không xấu. Cách kể và cách tả của Kim Lân rất nhân hậu, bao dung, nhân hậu đem lại cho ta nhiều cảm xúc.
Qua một đêm, sau khi về làm vợ Tràng, làm “dâu mới” của cụ Tứ, ta thấy nhân vật này cũng có những biểu hiện, tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Ngay cả khi cận kề cái chết, cô gái này vẫn khát khao hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, mái ấm yêu thương, bên chồng con như bao người phụ nữ may mắn khác. Trước ánh mắt tò mò của bà con xóm chợ, Thị “xấu hổ, chân bước nhẹ vào người”, nghe tiếng lũ trẻ la lên: “Anh Trang ơi! Chồng buồn cười quá”, Thị “nhướng mày”, rồi giơ tay “lắc”. viền áo”. Chưa gặp mặt bà Tư đã rất lo lắng, lo lắng cho “khuôn mặt tội nghiệp” của mình. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông nàng thật đáng thương: “cúi mặt xuống, tay mân mê vạt áo rách”. Nghe bà cụ Tứ nói: “Mẹ ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, bà vẫn thu mình đứng tại chỗ. Trầu cau đừng lận đận đám cưới. Đáng tiếc cho tình hình. Ngậm ngùi cho số phận. Thật đáng thương!
Thị cũng có nhiều biểu cảm “ngầu” rất nữ tính. Cái “liếc và cười” lần đầu tiên gặp Tràng. Tràng giáng một đòn vào lưng kèm theo lời mắng yêu: “Đồ khỉ gió”. Trách nhẹ chồng: “…lâu quá, đợi sốt ruột quá”. Một cái tát vào trán Trang kèm theo câu yêu thương: “Chỉ có thế là nhanh. Bẩn!”. Sau bao ngày đói khổ, sống lang thang đầu đường xó chợ, chết dần chết mòn, nàng về làm vợ Tràng, dù gặp nhiều thử thách, lo toan, cuộc đời nàng đã đổi thay. Niềm vui trong đêm tân hôn thể hiện một cách cảm động khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ trong cảnh nghèo đói. Hạnh phúc muộn màng nhưng quý giá! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân cho thấy bà trân trọng biết bao niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống của vợ chồng Tràng.
Tính cách người vợ của Tràng có nhiều chuyển biến tốt. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp, xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân phố “lộp cộp” hình như là niềm vui đang xôn xao giữa lòng phố? Thị “lặng lẽ” vào bếp chuẩn bị bữa sáng, Tràng cảm thấy cô vợ “tử tế, đứng đắn” của mình thật đáng yêu. Bà Tư có “dâu mới”, Tràng có vợ. Nhiều người trong nhà hơn, nhiều món ăn hơn, nhiều nhân lực hơn. Thị đã mang đến cho mẹ con Tràng sức sống và những thông tin mới về thời cuộc. Nghe tiếng trống khai thuế, chị nói với mẹ chồng và chồng: ‘Ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không nộp thuế nữa. Thậm chí họ còn phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói.” Qua đó, ta cảm nhận nhân vật vợ Tràng, “cô dâu mới” cũng là một sứ giả cách mạng.
Vai nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là nhân chứng tố cáo, lên án tội ác khủng khiếp của Nhật, Pháp đã gây ra nạn đói năm 1945 khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nạn đói khủng khiếp do chúng gây ra đã làm suy thoái nhân phẩm, cướp đi mọi giá trị của con người, khiến người con gái như một thứ rẻ mạt có thể “nhặt được”!
Nhân vật người vợ của Tràng gầy gò, đói khổ về làm dâu nhà lão bà cụ Tứ mặc áo rách như tổ đỉa. Bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là bữa cháo cám – hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi tủi nhục của nhân dân ta trong kiếp nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một chân lí ở đời. Giữa nghèo đói, khổ đau, chết chóc, nhân dân ta vẫn khao khát một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Người nghèo biết nương tựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương yêu nhau để vượt qua những thử thách khắc nghiệt, vươn tới hạnh phúc và đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó cả đời”… Như xưa bà cụ Tứ, em Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 luyện thi THPT Quốc gia:
vo-nhat.jsp
Các bộ đề lớp 12 khác