Nêu cảm nghĩ của em về truyện Bánh Chưng, Bánh Giầy hay nhất
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Bánh Chưng, Bánh Giầy
Bài giảng: Bánh Chưng, Bánh Giầy – Cô Trương San (GV )
Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác nhau. Ở nước ta, từ ngàn xưa đã có phong tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh dày. Truyện Bánh Chưng, Bánh Giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại bánh này, vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao, đề cao nông, trọng dân. kính trọng trời đất, tổ tiên của dân tộc mình. Truyện còn là bài học quý giá về cách chọn, dùng người có tài, có đức để trị nước.
Bối cảnh của truyện là thời Hùng Vương thứ sáu. Khi về già, vua muốn truyền ngôi nhưng vì có đến hai mươi con trai nên băn khoăn không biết chọn ai. Bấy giờ giặc ngoài đã nguôi, nhưng giặc trong vẫn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng. Ông biết rằng dân có thịnh thì ngôi vua mới vững. Đáng tiếc, Vương gia tuổi cao sức yếu, quyền thế không bằng lòng.
Một hôm, ông gọi các con đến nói: Tổ tiên ta đã truyền sáu đời từ khi dựng nước. Giặc Ân nhiều lần xâm phạm bờ cõi, nhờ Tiên Vương phù hộ ta đánh đuổi được, ai nấy hưởng thái bình. Nhưng mình già rồi, không sống mãi được, người nối nghiệp phải theo mình, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay nhân đại lễ Tiên Vương, ai vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho người ấy, có Tiên Vương chứng kiến.
Các Lang (con vua Hùng lúc bấy giờ gọi là Lang) ai cũng muốn giành lấy ngôi báu cho mình nhưng không hiểu được thâm ý của cha ông. Họ chỉ nghĩ đơn giản là chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, quà ngon vật lạ… là đủ nên đã tức tốc cử người đi tìm kho báu khắp nơi trên rừng, dưới biển.
Riêng Lang Liêu – con thứ mười tám của vua Hùng được thần giúp đỡ, vì so với các anh, chàng chịu thiệt thòi, không được hưởng phú quý. Từ nhỏ ông đã phải lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu tuy là con vua nhưng số phận của chàng như một người nông dân lao động. Anh buồn vì trong nhà chỉ có khoai và gạo. Nhưng khoai tây thông thường quá! Anh buồn bã nghĩ một mình.
Theo quan niệm của ông cha ta ngày xưa Thần, Phật, tiên, phật thường giúp đỡ những người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền thế, không có của cải, cũng không có kẻ ăn thịt người để ra lệnh đi tìm của lạ. Anh chỉ có tấm lòng yêu thương cha và đôi bàn tay cần mẫn. Ông được Trời Phật giúp đỡ.
Lang Liêu trong giấc mơ được Trời báo trước, bảo phải lấy gạo làm bánh cúng Tiên Vương, bởi trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống con người. Hạt gạo rất quý và dễ kiếm vì nó được làm ra bởi sức lao động của con người.
Lang Liêu đã hiểu và làm theo ý Trời. Lời khuyên của Chúa thật khôn ngoan và chân thành. Lang Liêu càng nghĩ càng thấy đúng. Tư tưởng của Chúa chính là tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Vị thần này là hiện thân của người dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc trời đất, là kết quả mồ hôi công sức của những người như nhân dân? Mọi người rất đánh giá cao những gì nuôi sống họ, những gì họ có thể làm. Phải là những người làm ra hạt gạo cho đời mới có được những suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu dâng cha món quà quý nhất trong trời đất do chính tay mình làm ra, chàng quả là người con hiếu thảo.
Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng chân thành, óc sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng gạo nếp dẻo thơm, trắng tinh, cùng với đậu xanh, thịt lợn, gói trong lá dong, buộc lạt giang thành một chiếc bánh hình vuông rồi đem nấu. .
Vậy là anh không phải tìm kiếm đâu xa. Lúa đậu ông trồng, lợn ông nuôi, lá dong ông để sẵn trong vườn, ngoài sân. Rất nhiều thứ kết hợp với nhau thành một chiếc bánh đặc biệt chưa từng thấy bao giờ. Cũng chính thứ gạo nếp đó, ông đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành chiếc bánh hình tròn. Đó là một chiếc bánh giày.
Cảnh diễn ra nghi lễ trong ngày vía Tiên Vương thật thú vị. Con cháu các Vua Hùng mang hương núi, hương biển, nem công, phượng hoàng (cách gọi sản vật quý hiếm) không thiếu thứ gì. Tuy nhiên, người cha chỉ nhìn qua rồi dừng lại trước mâm cơm của Lang Liêu. Điều gì đã thu hút sự quan tâm của nhà vua đối với hai loại bánh này? Đầu tiên có lẽ là hình vuông của bánh chưng và hình tròn của bánh chưng với vẻ đẹp dân dã và ưa nhìn. Bánh chưng xanh, bánh chưng trắng mịn. Hùng Vương bằng lòng lắm, gọi Lang Liêu đến hỏi. Anh thành thật kể chuyện giấc mơ gặp Chúa của mình. Người cha suy nghĩ hồi lâu rồi chọn hai chiếc bánh này để tế Trời Đất và Tiên Vương.
Vì sao hai chiếc bánh của Lang Liêu được Hùng Vương chọn nối ngôi?
Bởi hai loại bánh đó thể hiện thái độ tôn trọng nông nghiệp, tôn trọng hạt gạo do con người làm ra.
Chắc hẳn Hùng Vương đã cảm nhận được tính chất thần thánh trong truyện Thần Mộng. Lời Chúa quả không sai: Trong trời đất, lúa gạo là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân no đủ thì ngôi vua vững. Lang Liêu biết quý trọng sức lao động và thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của mình.
Sau khi thưởng thức hai loại bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần đều tấm tắc khen ngon. Nhà vua giải thích về hai loại bánh này có lý: Bánh hình tròn là tượng Chúa, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, nhân thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng các loại động vật, thực vật, ta đặt tên là bánh Chưng. Lá bọc ngoài, vị trong như đùm bọc lẫn nhau…
Hai loại bánh này chứng tỏ tài năng của người có thể kế vị vua. Mang vật quý nhất trong trời đất do chính tay mình làm ra dâng lên vua cha để cúng Trời Đất và các Tiên Vương, Lang Liêu là người con tài giỏi, thông minh và hiếu thảo. Vua Hùng tâu rằng: Lang Liệt dâng lễ vật theo ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương làm chứng.
Lang Liêu là người tốt, đủ trí tuệ để lo cho muôn dân, nối nghiệp vua cha. Việc truyền ngôi cho Lang Liêu là thuận theo ý trời, ý Hùng Vương.
Sự tích bánh chưng, bánh dày đã đi vào phong tục Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Dân tộc ta đã xây dựng phong tục từ những điều bình dị mà ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh chưng vang khắp xóm. Cảnh cả nhà đang náo nức quây quần bên ngọn lửa hồng nấu những chiếc bánh chưng xanh thật ấm áp biết bao. Trên bàn thờ tổ tiên phải có vài cặp bánh chưng và một mâm bánh chưng để làm Tết.
Sự tích bánh chưng, bánh dày nằm trong mảng truyện cổ tích giải thích nguồn gốc sự vật xuất hiện từ sau thời Hùng Vương dựng nước. Sự tích trầu giải thích tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu… Đằng sau lời giải thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ tiên người Việt – một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, nhân dân ta đã có kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và chế biến những món ăn đặc sản vừa ngon vừa ý nghĩa.
Câu chuyện còn là bài học sâu sắc về cách chọn người có đức, có tài để trị nước, an dân. Vì vậy, dù ra đời cách đây hàng nghìn năm nhưng đến nay câu chuyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.
Xem thêm các bài văn mẫu về cảm nghĩ, kể chuyện, tả cảnh, tả người, tả người lớp 6 hay khác:
Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 6 theo từng phần:
Giải bài tập lớp 6 theo sách mới môn học