Đề bài: Nêu cảm nhận của em về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Bài giảng Cảnh ngày hè – Cô Trương Khánh Linh (giáo viên )
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một không gian trữ tình độc đáo. Giàu cảnh và tình, nhưng bài thứ bốn mươi ba trong tập “Cõi Bảo Kinh” chứa đựng những nét độc đáo, thấp thoáng niềm tự tin của tác giả. Bài thơ này có tên là “Cảnh mùa hè”.
Câu thơ đầu tiên, ta đọc thoáng qua, sao có vẻ thanh bình, yên ả đến thế:
“Rồi mát ngày đi học”.
Nguyễn Trãi đó! Anh đang nhàn nhã ngồi dưới bóng cây như đang tận hưởng cái mát thực sự. Việc quân, quốc sự hẳn đã xong, ông trở về với cuộc sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc nhưng hài hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Thời gian rảnh rỗi, mát mẻ trong những ngày học”. Nhưng “rảnh” hay “đã” cũng đều thu hút sự quan tâm của độc giả. Rảnh rỗi, mọi việc đã xong, đã qua. “School Day” lại gây chú ý. Cả đoạn thơ không còn đơn thuần là hình ảnh Nguyễn Trãi ngồi hóng gió mà toát lên tình cảm, tâm sự của tác giả “Ở nhàn ta hưởng ngày dài”. Một xã hội đã suy yếu, khát vọng và ý chí của tác giả đã bị chôn vùi, chẳng còn lại gì, ông đành ra đi, từ quan lui về ở ẩn, đành “nguội” cả buổi học để thảnh thơi. Đi tìm bạn tâm sự, gánh nặng đè lên vai. Cả câu thơ thoáng chút bí bách, không còn vẻ thanh thoát nhẹ nhàng.
Trở về với thiên nhiên, anh có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Anh thích thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.
“Hạnh phúc đùn ra tán cây đầy hoa
Thạch hạt lựu vẫn phun thức ăn đỏ
Hồng đã tỏa hương thơm”
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, cảm xúc của ông, thiên nhiên bừng lên sức sống. Cây phát triển rất nhanh, tán nó ngày càng lớn, có thể ví như một tán rộng vươn mình giữa trời với cành lá xanh mướt. Cây lựu cũng phun đỏ, hồ sen tỏa hương, điểm tô sắc hồng của cành và hoa. Qua lăng kính Nguyễn Trãi: sức sống vẫn hừng hực, căng tràn, cuộc đời là vườn hoa, vườn thiên nhiên muôn màu. Cảnh đẹp như tiên cảnh có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một nhà thơ đa cảm, giàu khát vọng sống với đời….
Qua cảnh ngày hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng được thể hiện sâu sắc:
“Chợ cá làng chài
Đời ơi tiếng ve sầu đêm dương”.
“Chợ” là hình ảnh bình yên trong tâm thức người Việt Nam. Chợ đông vui thì đất nước thái bình thịnh trị, dân no đủ; Khi chợ tan, người ta dễ gợi lên hình ảnh đất nước có những đổi thay, loạn lạc, chiến tranh, binh đao… cộng với tiếng ve kêu lúc hoàng hôn gợi lên cuộc sống thôn dã. Chính những sắc màu thôn quê ấy đã làm sâu sắc thêm tình cảm của ông và gợi lại những tư tưởng mà ông đang theo đuổi:
“Có thể Yu sẽ cầm đàn một lúc
Mọi người đủ giàu để hỏi đường.”
“Dân no đủ”, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng hướng tới, mong ước. Ở đây, ông nhắc đến Ngũ Cấm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng thái bình thịnh trị. Vua Thuấn cho tấu đàn “Nam phong” để ca ngợi dân giàu, nhiều lúa, nhiều ngô, nhiều khoai. Vì vậy, tác giả muốn tiếng đàn của vua Thuấn được lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Những ước mơ ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là một nhà thơ lớn có tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của người dân, chăm lo cho cuộc sống của họ. Đó là một giấc mơ tuyệt vời. Có thể nói, dù bị triều đình xua đuổi nhưng Nguyễn Trãi vẫn sống lạc quan, mong ước nguyện lý tưởng của mình được toại nguyện để nhân dân có cuộc sống ấm no.
Đoạn thơ này đã làm rõ cảm xúc của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước, thương dân vẫn ngày đêm “cuốn nước Đông triều”. Ông yêu thiên nhiên say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi khỏi những giây phút bi quan của cuộc đời. Dù sống với non sông tự nhiên, Trãi vẫn một lòng dõi theo “một tấc ân xưa”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lý tưởng thân dân, lý tưởng nhân nghĩa, lý tưởng ước làng xóm vắng không một tiếng than thở, đau buồn.
Bài thơ “Hương hoàng hậu” của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều về sự thanh thản, tĩnh lặng của một con người ít tu tập, cuộc đời hầu như gắn bó với thôn quê. Hẳn Nguyễn Du đọng lại trong lòng người đọc nỗi đau day dứt của những kẻ xa quê, lênh đênh nơi chân trời góc bể. Thơ Nguyễn Trãi thì khác. Con người anh hùng ấy dù đau buồn, chán nản vì sự nghiệp kinh tế dở dang vẫn không nỡ nhìn quê hương, bến đỗ cuối cùng của đời mình, như chiếc lồng sắt giam cầm cánh chim. Tấm lòng của ông đối với quê hương luôn chân thành, nhân hậu, âm thầm nhưng mãnh liệt. Nguyễn Trãi hòa nhập rất nhanh vào cuộc sống thôn dã yên ả. Ông không giận không buồn mà còn rất vui, rất tự hào khi thốt lên: “Quê hương ta xưa thiếu gì của cải (Người 13), khi gọi mây, gió, trăng, hoa, tuyết, sông núi làm bạn, khi nghĩ rằng dòng suối Côn Sơn là nơi có thể gột rửa mọi nhơ nhớp của đời quan trường, cái “tâm” của nhà thơ luôn trong sáng, vững vàng trước bao đổi thay, bài Bảo kính cảnh giới 43 là một dẫn chứng tiêu biểu của cái “tâm” đó.
Những năm tháng cuối đời là một chặng đường đầy cam go, thử thách của Nguyễn Trãi. Sự nghiệp củng cố và xây dựng triều đình nhà Lê của ông chưa được thực hiện trọn vẹn. Cung đình đầy hận thù và nghi kỵ. Nơi thôn dã Côn Sơn chỉ là nơi dừng chân bắt buộc của một con người khao khát cống hiến cuộc đời mình cho đất nước và dân tộc như Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, trong thơ ông, ta luôn bắt gặp một phong thái ung dung, tự tại, một trái tim yêu đời, yêu người, luôn rộng mở và nhạy cảm. Chính nhịp điệu của câu thơ đầu trong Bảo kinh trong cõi 43 đã giúp ta nhận ra phong cách rất riêng ấy: Rảnh rỗi thời đi học.
Nhịp ngắt của câu thơ gợi những bước đi nhẹ nhàng, điềm tĩnh, tự tin và một phong thái thư thái, thoải mái của Nguyễn Trãi. Con người ấy, tuổi đã cao, thảnh thơi, kiêu hãnh, mãn nguyện với sự nghiệp đã làm thời trai trẻ, nay có chút rảnh rỗi, thong thả hưởng gió mát, đắm mình trong cảnh đẹp, trong đời để thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Phong thái ung dung này hiện diện trong nhiều câu thơ khác của Nguyễn Trãi. Nhà thơ Đặng Đình nắm tay em trong buổi chiều (Tiếng phổ thông), Vui thích về cưỡi bóng trăng trong buổi sáng (Số 15), ngồi thuyền dạo chơi trong rạo rực của gió trăng:
“Mái nhà thác trăng trông mát quá
Buồn để mặc gió khi phiêu bạt”
(Tự truyện 31)
Đó là nhân cách của Nguyễn Trãi, một con người luôn chủ động, tự tin trong mọi tình huống, dù khó khăn gian khổ nhất, nhưng ông quả là đáng buồn! Những ngày học được nhấn mạnh ở đây không nhất thiết nhằm xác định thời gian mùa hè như một hiện tượng địa lý. Đó là thời gian suy ngẫm. Nó bị chi phối bởi cảm giác, bởi nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ trong tình thế buộc phải lẩn trốn. Vì tháng ngày vô vị, chờ đợi nên nó sâu thẳm, vô tận, nó dài bất thường! Tuy nhiên, với bản lĩnh và nghị lực mạnh mẽ, nhà thơ vẫn có thể bình thản, thoải mái trong tư thế của một kẻ ngưỡng mộ. Phẩm chất cao đẹp ấy chỉ được hình thành trong quá trình vượt qua bao thăng trầm của một người anh hùng.
Màu xanh của cây cối xum xuê được nhấn mạnh ngay ở câu thứ hai và nó là nền màu chủ đạo trong bức tranh mùa hè của Nguyễn Trãi. Đập vào mắt người đọc ấn tượng đầu tiên là một màu xanh đậm đặc, của một sức sống căng tràn, bóng mát của sân đình. Sức sống ấy có thể được cảm nhận qua hai từ láy có nét nối tăng tiến dồn vào một câu thơ: đùn ra, trào ra. Cái cảm giác gay gắt của cái nắng mùa hè không còn nữa, cái chói chang của nắng chỉ làm cho màu xanh thêm tươi tắn, lung linh. Sử dụng gam màu lạnh nhưng vẫn tạo cảm giác ấm áp, sảng khoái bởi Nguyễn Trãi đã điểm xuyết trên gam màu ấy những bông hoa lựu đỏ thắm bỗng bật lên với một từ xịt đầy sức gợi và cũng nằm trong quan hệ với hai từ duy nhất trong câu trên. Sự tương phản giữa màu đỏ của lựu và màu xanh của hoa hồng tạo ấn tượng mới về sự chuyển động của màu sắc, sức sống mãnh liệt của hoa. Họ đùn đẩy, lừa bóng tạo cảm giác choáng ngợp! Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ nổi tiếng với biệt tài sử dụng những gam màu tương phản gay gắt mà sinh động lạ thường: Cửa son đỏ mái bùm bùm – Bật đá xanh rêu (Đèo Ba Dội), hay Một trái chín thu trăng – Vừng đỏ hột, đỏ đỏ (Hỏi trăng 1). Đó là một màu không nhạt như chất lỏng mà đậm đặc, thô ráp và có tác động mạnh.
Câu 4 thể hiện sự cảm nhận tinh tế của tác giả trước sự tĩnh lặng của bức tranh. Quả thật, cảnh phải thật tĩnh lặng, nhà thơ phải thật đắm mình trong cảnh thanh bình thì mới nhận ra rằng hương sen chỉ còn thoang thoảng đâu đây giữa không gian cuối hè. Tĩnh mà thực (tác giả dùng tĩnh để tả động, dùng khoảng thời gian tĩnh lặng của buổi học để tả sức sống của thiên nhiên. Ở câu 5 và 6, tác giả lại dùng động để tả tĩnh, tả tiếng lao xao ngoài xa). từ xa vọng lại tiếng ve du dương.Những âm thanh này là sự chuyển tiếp, gọi tác giả liên tưởng đến một âm thanh khác, hư ảo.Đó là trong giấc mơ của nhà thơ.Tiếng đàn lại được mở ra,cho người đọc thỏa sức tưởng tượng những âm thanh khác: tiếng cười vui của người dân sống trong cảnh thái bình thịnh trị, và chỉ có sự im lặng thanh bình, niềm mơ ước của con người.Một nhà thơ mới được bộc lộ, vang dội thành một tiếng đàn!Cái tinh tế của bài thơ là như thế.
Từ ước mơ ấy, ta thấy được cái tâm hồn trong sáng, chân chất luôn hòa quyện trong những vần thơ viết về quê hương của Ức Trai.
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:
Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:
xem-day-he.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học