Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích “Hạnh phúc của một nhà tang chế” của Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng là cây bút bậc thầy về nghệ thuật trào phúng. Sở hữu sự khéo léo, sắc lạnh của một ông vua phương Bắc đưa tin, ông dường như hài lòng trong thế giới nghệ thuật đó. Và Số đỏ là minh chứng cho những sáng tạo không biết mệt mỏi của ông. Tác phẩm là đỉnh cao nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, trong đó nếu truyện cổ tích được coi là vở hài kịch lớn về xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì truyện có chương thứ mười lăm, với tên gọi độc đáo Hạnh phúc của một tang gia. gia đình là một chương trình hài kịch hay nhất. Ở đó, tất cả những giá trị của nghệ thuật trào phúng được nhà văn thể hiện một cách rõ nét nhất.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật hài hước nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội. Nó được thể hiện qua việc xây dựng mâu thuẫn trào phúng, nhân vật trào phúng, cảnh trào phúng, ngôn ngữ trào phúng, giọng điệu trào phúng… Trong tác phẩm Số đỏ nói chung và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo trào phúng dựa trên những yếu tố đó, thậm chí đạt đến đỉnh cao.
Ở chương Hạnh phúc của một tang gia, xung đột trào phúng được thể hiện qua nhan đề và tình huống trào phúng. Chắc hẳn bạn đọc không khỏi ngạc nhiên, tò mò xen lẫn buồn cười vì cái tiêu đề độc đáo của chương sách này. Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc hạnh phúc và vui sướng khi đạt được điều mình muốn, trong khi tang tóc là khoảng thời gian đau buồn và đau buồn vì một người thân yêu đã qua đời trong gia đình. Hai sự vật hoàn toàn đối lập, không thể đi cùng nhau mà nay nó còn được đặt trong quan hệ sở hữu qua từ của. Trong tang gia có phúc, hay phúc đến từ tang gia. Điều này thật nghịch lý, mỉa mai và quá buồn cười. Nhưng thật đúng và không hề vô lý chút nào, khi câu mở đầu cho chương được cất lên: Ba ngày sau ông già thật sự qua đời. Con người chết theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử cũng là lẽ thường tình. Vậy tại sao nhà văn lại dùng từ thật? Điều đó có nghĩa là ông già đã giả chết? Nghe thì nực cười nhưng là sự thật, sau bao lần sinh tử, con cháu trong gia đình lo hết từ lang băm đến ông tây, thuốc thang nọ kia… nhưng cuối cùng ông lão vẫn chưa ra đi. chết. . Vì họ đang mong đến ngày ông chết để còn được chia khối tài sản khổng lồ. Thế là họ vô cùng bất ngờ và vui mừng vì hôm nay anh đã thực sự qua đời sau ba ngày điều trị. Cái chết đó khiến nhiều người rất vui mừng! Nhan đề và tình huống đã tạo nên nét trào phúng rất độc đáo. Bà con vui mừng phấn khởi khi trong nhà có tang!
Và thế là bao nhiêu bộ mặt giả dối của con cháu một gia đình thượng lưu bậc nhất Hà Nội đã được nhà văn khắc họa một cách mỉa mai, trào phúng trong đám tang của ông cố. Mở đầu là cụ cố Hồng – đứa con thất lạc đã lâu của người quá cố. Ở vị trí này, anh phải là người đau buồn nhất, bởi vì cha không còn nữa. Anh tỏ ra “sầu” thật sự khi mơ mộng về cảnh mặc bộ đồ ngủ ho khạc nhổ và khóc lóc, bị người đời bàn tán: “Ôi, tội nghiệp thằng bé ngày xưa quá!”. Trong cơn bối rối vì cái chết của cha, anh không thể không hút đến sáu mươi điếu thuốc phiện, nói một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu: “Biết rồi khó nói”. Con người luôn tự cho mình là “trên thiên văn, dưới tường địa lý” thực ra chẳng biết gì. Ngày cha mất, anh hiện nguyên hình là một kẻ tham lam, bất hiếu. Tiếp đến là ông Văn Minh, con trai cụ cố Hồng và là cháu trưởng của cụ cố. Cái vẻ đăm chiêu ấy phù hợp với một tang quyến không phải là nỗi buồn, nhưng Văn Minh vẫn còn nhiều bối rối cần giải quyết. Anh sốt ruột sao luật sư chưa đến để chuyển bản di chúc từ giai đoạn lý thuyết sang giai đoạn thực hành. Anh băn khoăn vì không biết xử lý Xuân Tóc Đỏ, người có hai tội nhỏ là tố cáo dâm ô em gái anh và dụ dỗ một người chị khác của anh nhưng lại được ơn rất lớn. vì câu nói: “Anh ơi, anh là thằng chồng cắm sừng” khiến ông cụ chết điếng. Còn lại con cháu thì sốt ruột, la ó như bà Văn Minh vì không được bày áo tang của tiệm may Âu Hoa, số khác lại phát điên như chú Tư Tấn vì chưa dùng đến áo tang. Có người đượm buồn lãng mạn như cô Tuyết trong vẻ ngẩn ngơ với bộ đồ ngây thơ hở hang mà đợi người tình Xuân Tóc Đỏ mãi không về, có người lại trơ trẽn đến mức tự kiêu sừng nai. vô hình chiến trường đáng mấy ngàn bạc như ông Phan có sừng… Ai cũng có nỗi buồn riêng hóa ra hợp thời tang gia đình. Nhưng rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút châm biếm mỉa mai để lột tả bản chất độc ác, bất hiếu, vô đạo đức bên trong được che đậy bởi lớp vỏ giả tạo bên ngoài. Chân dung của những người trong gia đình thượng lưu đã góp phần quan trọng làm nên thành công về nghệ thuật trào phúng của truyện.
Không dừng lại ở đó, ngòi bút trào phúng của nhà văn còn như một nhát dao sắc bén, nó lan xa hơn, rộng hơn. Không chỉ con cháu của tang quyến mà cả những người tham dự cũng bị miêu tả một cách mỉa mai. Có hai cảnh sát Min De và Min Toa vui mừng khôn xiết vì được thuê giữ trật tự đám tang trong khi thất nghiệp. Có ông Typn, nhà thiết kế của một cửa hàng may Tây hóa, thất vọng vì sự chậm trễ trong việc phát hành quần áo tang lễ chưa được ra mắt công chúng. Có nhóm bạn, cụ cố Hồng râu ria, huân chương, cũng rạo rực, hồi hộp như nhạc Xuân Nữ khi nhìn thấy làn da trắng nõn nhô ra dưới cánh tay và ngực của bà Tuyết. Có nhà sư Tăng Phú xuất hiện như một ngôi sao kiêu hãnh vì vừa lật đổ được hội Phật giáo, cùng với cố vấn báo Gò Mộ là Xuân Tốc Độ – kẻ gây ra cái chết của cụ ông, được hoan nghênh nhiệt liệt. Nữ hoàng. Cả đám bạn thanh mai trúc mã của cô Tuyết đi đám tang như đi dự tiệc, tán tỉnh, chọc ghẹo… nhau một cách hồn nhiên. Dù miêu tả nhiều nhân vật nhưng dường như nhà văn Vũ Trọng Phụng không bỏ sót một nhân vật nào. Ai cũng hiện lên với những chân dung tiêu biểu nhất. Điều này vừa thể hiện tài năng của nhà văn, vừa phản ánh hiện thực mạnh mẽ của tác phẩm. Không chỉ con cháu trong gia đình mà những người ngoài xã hội cũng là người cùng một nhà. Tất cả tạo nên một xã hội quái gở, lố bịch, thối nát, vô đạo đức mà người viết gọi là cải lương, văn minh, Âu hóa. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng vì thế có sức công phá mạnh mẽ.
Nhưng có lẽ đọc chương Hạnh phúc của một tang gia, ngoài những bức chân dung biếm họa trên, hẳn người đọc chưa quên được cảnh trào phúng mà tác giả dựng lên. Ước mơ của con trai cụ cố là cụ cố Hồng sẽ phải làm một đám tang thật trọng thể, một đám tang mẫu mực, uy nghiêm bậc nhất Hà Nội. Vì vậy, cảnh đám ma trong tác phẩm là một trong những thành công xuất sắc của nghệ thuật trào phúng mà nhà văn đã sử dụng để miêu tả. Đầu tiên là cảnh tang lễ. Có lẽ do chờ đợi lâu nên nó đã được chuẩn bị tốt. Từ trang phục tang lễ đến các vật dụng, phụ kiện cho tang lễ đều được chuẩn bị rất lộng lẫy, chu đáo và tươm tất. Chỉ nhìn bộ đồ tang lễ của chị Tuyết cũng đủ biết nó được thiết kế “tinh xảo, cầu kỳ” như thế nào mà cả gia đình ai cũng phấn khởi, hạnh phúc. Những vật dụng chuẩn bị cho tang lễ nhiều vô kể. Kiệu có bát cống, có lợn có lọng, có đủ loại kèn Ta, Tây, Tầu, đến ba trăm vòng hoa… Đoàn người đi đưa tang kéo dài mấy con phố. Không khí của đám tang cũng thật đặc biệt. Không có tiếng khóc, không có lời thương hại, không có nước mắt, nhưng đầy ồn ào và hỗn loạn. Đám đông đi đến đâu náo động đến đó, người đi đường đến xem đều trầm trồ, đến nỗi người chết nằm trong quan tài cũng gật đầu cười sung sướng. Đó là một đám rước, một lễ hội, không phải một đám tang!
Và rồi giây phút đau đớn, khổ sở nhất đã đến – giờ hạ huyệt. Đây là lúc người âm người dương vĩnh viễn xa cách, vĩnh viễn không gặp lại. Tuy nhiên, cảnh tảo mộ trong chương được ví như một trò hề lố bịch. Cụ Hồng khóc ngất đi. Tú Tấn trong bộ đồ tang luộm thuộm cùng đám bạn nhảy từ mộ này sang mộ khác, bắt mọi người phải cúi người tạo dáng, khóc thế này, khóc thế kia để được chụp ảnh. Nhưng có lẽ diễn viên làm tròn vai nhất phải là ông Phan mọc sừng. Đứa cháu dâu quý hóa đó khóc rất nhiều, nức nở, khóc hết nước mắt, nhưng thực ra là để ngụy tạo một cuộc thương lượng với Xuân Tóc Đỏ. Cảnh này khiến người đọc cười ra nước mắt. Trò hề đầy đồi truỵ, mất hết nhân tính, nhân tính dưới ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đầy mỉa mai, trào phúng. Đến đây, ta hiểu vì sao nhà văn lặp lại hai câu “Đi thôi…” trong tang lễ. Không biết đây là đám ma hay là gì mà họ cứ đi, cứ đến mồ chôn tất cả mọi người từ gia đình đến xã hội. Khóc Hừ! Huh! Huh! của Phan mọc sừng như thể “Gõ! Ném! Ném tất cả chúng xuống ngôi mộ đó. Những đám tang lớn nhất, mẫu mực nhất, danh giá nhất có đủ mọi thứ, nhưng lại thiếu một điều quan trọng nhất, đó là Tình thương đối với người đã khuất. Những cảnh trào phúng độc đáo như thế này khơi dậy tính tố cáo mạnh mẽ.
Một trong những giá trị thành công về nghệ thuật trào phúng của tác phẩm được thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong đoạn trích nhiều lần người đọc bật cười trước những từ ngữ mỉa mai, mỉa mai mà Vũ Trọng Phụng đã sử dụng. Nổi bật có những từ như “cả nhà dậy” diễn tả rất chân thực vẻ mặt ngạc nhiên, sung sướng của con cháu khi nghe tin cụ mất, nhưng đồng thời cũng có tác dụng diễn tả. biểu hiện của sự ngạc nhiên và hạnh phúc của trẻ em. bản chất bẩn thỉu của họ. Hay trong một đám tang của một gia đình danh giá bậc nhất Hà Nội, điều quan trọng nhất là sự trang nghiêm, tôn nghiêm và nền nếp. Tuy nhiên, tác giả cũng nhiều lần dùng những từ như xôn xao, tươi vui, huyên náo… để miêu tả không khí của đám tang. Trong khi đó, chưa kể đến cách dùng từ miêu tả chân dung nhân vật đạt đến độ trớ trêu cao nhất như: ông cố Hồng lâu mộng, ông Văn Minh bối rối, bối rối, bâng khuâng, cô Tuyết buồn bã. Đôi khi người viết thêm vào vài câu khiến người đọc phải “tút tút”: Cái chết ấy đã khiến nhiều người rất vui mừng, Quả là một đám tang hoành tráng có thể khiến người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu nó không gật đầu… Không chỉ cái cảm giác cười hả hê sung sướng mà cười đến chảy nước mắt. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm “phủ sóng” xuyên suốt cả chương. Không thể hình dung một xã hội, một gia đình trong bối cảnh thời đại đó lại có dấu hiệu suy đồi, băng hoại đến mức như vậy.
Không thể phủ nhận, Vũ Trọng Phụng hơi khắt khe khi đánh giá hiện thực đời sống xã hội thành thị đương thời. Tuy nhiên, với quan điểm nghệ thuật rất dứt khoát: tiểu thuyết phải là sự thật ở đời và ngòi bút châm biếm sắc bén, nhà văn đã mang đến cho người đọc những vết thương đã thành “ung nhọt” trong xã hội cần được chữa trị. “chữa bệnh” gấp. Có nhiều người còn cho rằng Vũ Trọng Phụng tuy không làm cách mạng nhưng cách mạng phải cảm ơn ông vì những quan điểm hiện thực sâu sắc như vậy. Và nghệ thuật trào phúng chính là công cụ giúp ông làm tốt điều này. Ông xứng đáng trở thành một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc, tiêu biểu của văn học giai đoạn 1930 – 1945.
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
niềm hạnh phúc
Các bộ đề lớp 11 khác