Top 6 bài Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ hay nhất – Ngữ văn lớp 8

0
20

Bài giảng Nhớ rừng – Cô Phạm Lan Anh (giáo viên )

Đề bài: Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.

Thế Lữ tên đầy đủ là Nguyễn Thứ Lễ, sinh 1907, mất 1989, quê ở Bắc Ninh, được coi là một trong những ngọn cờ tiên phong của phong trào Thơ mới (1932-1945). Với tâm hồn dạt dào cảm xúc và khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, ông đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới thơ ca Việt Nam. Ngoài tập thơ xuất bản năm 1935, Thế Lữ còn sáng tác nhiều thể loại khác như truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện rừng, kịch… Trong thời kỳ tham gia kháng chiến chống Pháp, ông chuyển hẳn sang sáng tác. các hoạt động. kịch và có nhiều công lao trong việc xây dựng ngành sân khấu nước ta.

Cái tên Thế Lữ gắn liền với bài thơ Nhớ rừng được nhiều người yêu thích. Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú, tác giả đã thể hiện sâu sắc, sinh động tâm trạng phẫn uất, chán ghét cuộc sống tù túng, tầm thường và hoài niệm về cuộc sống tự do ngày xưa. Qua đó kín đáo thể hiện thái độ phủ nhận thực tại nô lệ, khát vọng tự do mãnh liệt và lòng yêu nước thầm kín, nồng nàn của nhân dân ta.

Nhớ rừng được viết theo thể thơ tám chữ, có vần (hai câu liền nhau cùng vần). Nhịp, vần biến đổi nhịp nhàng, đều đặn. Đây là thể thơ được sử dụng khá rộng rãi trong Thơ mới.

Bài thơ có hai hình ảnh tương phản: Thảo cầm viên nơi giam cầm con hổ và khu rừng đại ngàn nơi nó tung hoành ngày xưa. Cảnh trên là hiện thực, cảnh dưới là quá khứ và cũng là ước mơ, khát khao cháy bỏng.

Cảnh ngộ bị giam cầm là nguyên nhân tạo nên tâm trạng bi đát của con hổ. Bi kịch thể hiện ở chỗ, hoàn cảnh sống đã hoàn toàn thay đổi, nhưng tính cách của con hổ thì không thể thay đổi. Nó không chịu cúi đầu chấp nhận hoàn cảnh vì nó luôn ý thức mình là chúa tể muôn loài. Nếu được chấp nhận, nó sẽ không còn là nó nữa. Tâm trạng phẫn uất, bất bình, vùng vẫy quyết liệt của con hổ bị cầm tù là cảm xúc chủ đạo bao trùm toàn bài và thấm sâu vào từng câu, từng chữ.

Tâm trạng ấy được nhà thơ diễn tả bằng ngòi bút sắc sảo, tài hoa:

“Ôm trong lồng sắt một cục hận, ta nằm dài, nhìn ngày tháng trôi, ………….. Chịu đựng đàn cùng lũ gấu điên, Với đôi chuồng vô tư Leopards.”

Đoạn thơ cho thấy nỗi khổ tâm khủng khiếp của vị chúa sơn lâm bị giam cầm lâu ngày trong một không gian chật hẹp, ngột ngạt.

Ở câu thơ đầu, phép đối kết hợp với nhịp điệu chậm rãi, ngắt quãng gợi cho ta một mối hận chất kết thành khối nặng trĩu trong lòng. Con hổ muốn hất tung tảng đá vô hình đó nhưng bất lực đành nằm im nhìn ngày tháng trôi đi. Các thanh bằng phẳng kéo dài ở câu hai phản ánh tình cảnh vô định và buồn chán tột độ của chúa sơn lâm.

Xem thêm bài viết hay:  Tả chiếc xe đạp của em (7 mẫu)

Từ chỗ là chúa tể muôn loài được tôn thờ, sùng bái, tự do dạo chơi giữa núi rừng hùng vĩ, nay bị mai một, lạc loài, bị nhốt trong cũi sắt, con hổ cảm thấy tủi nhục, bị cầm tù. Chúa sơn lâm tức giận khi bị biến thành trò chơi hoa mỹ, món đồ chơi của những con người nhỏ bé nhưng kiêu ngạo, bị đặt xuống ngang hàng với bầy gấu điên, với cặp báo gấm vô tư…, kém hơn không đáng kể. Cố gắng tìm mọi cách để thoát ra, con hổ đành nằm xuống trong tâm trạng bất lực, bó tay.

Thực tế đáng buồn ấy càng làm cho con hổ thêm bồi hồi nhớ lại quãng thời gian được tự do vùng vẫy giữa núi cao, rừng thẳm:

“Tôi sống mãi trong tình yêu và nỗi nhớ …………. Cùng cất lên khúc ca dài dữ dội,”

Chối bỏ hiện tại khắc nghiệt, chúa sơn lâm chỉ còn hai hướng đi: hoặc trở về quá khứ, hoặc chiêm ngưỡng tương lai. Hổ không thể có tương lai, chỉ có quá khứ. Hào quang rực rỡ của quá khứ tạo ra một ảo ảnh, và ảo ảnh đó được phóng đại bởi trí tưởng tượng.

Chúa sơn lâm hiểu rằng quá khứ huy hoàng một khi đã qua đi sẽ không bao giờ trở lại. Vì vậy, tâm trạng của nó vừa tự hào, vừa xen lẫn đau đớn, tuyệt vọng.

Những từ đẹp đẽ, gợi cảm nhất như: bóng mát, cây cổ thụ, gió hú, tiếng nguồn reo núi rừng, hoang vu, bí mật… được tác giả sử dụng để miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hoang sơ và đẹp đẽ. sức sống mãnh liệt của chốn rừng sâu – giang sơn bao đời của gia đình chúa sơn lâm. Đó là chốn ngàn năm âm u, cao vời vợi, cảnh rừng rú ghê gớm không ngòi bút nào tả xiết.

Trên cái nền hùng vĩ ấy, chúa tể sơn lâm hiện ra với dáng vẻ uy nghiêm, oai phong:

“Em bước lên, hùng dũng, đàng hoàng, …………. Giữa chốn hoa không tên, không tuổi”.

Những hình ảnh giàu chất dẻo đã diễn tả sinh động vẻ đẹp dũng mãnh, mềm mại, uyển chuyển và sức mạnh nội lực ghê gớm của chúa sơn lâm giữa núi rừng hùng vĩ, hùng vĩ.

Khổ thơ thứ ba của bài thơ như một bộ tứ tuyệt sắc sảo miêu tả phong cảnh thiên nhiên trong những thời điểm khác nhau:

“Còn đâu những đêm vàng bên suối …………. Than ôi! Một thời huy hoàng nay còn đâu?”

Bốn cảnh: đêm vàng, ngày mưa, rạng đông và chiều đẫm máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện ra trong nỗi nhớ khôn nguôi của hổ sa cô.

Đó là khung cảnh huyền ảo, nên thơ của những đêm vàng bên suối, chúa sơn lâm đứng say sưa uống ánh trăng. Là những ngày mưa gió bốn phương đổi thay, chúa sơn lâm lặng lẽ ngắm nhìn giang sơn… đổi mới. Đó là buổi bình minh của cây xanh và nắng vàng, rộn rã tiếng chim hót. Cuối cùng là cảnh những buổi chiều đẫm máu sau rừng thật dữ dội và bi thảm. Chúa tể của đại ngàn đang ung dung chờ chết cái nắng gay gắt, để chiếm lấy cho mình phần bí mật của vũ trụ bao la. Đại từ ta được lặp lại nhiều lần trong bài thơ tạo nên âm điệu vững chắc, hùng tráng của câu thơ, thể hiện niềm kiêu hãnh, tự hào là chúa tể của muôn loài.

Xem thêm bài viết hay:  Dàn ý Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất (8 mẫu)

Nhưng dù huy hoàng đến đâu cũng chỉ là vinh quang của quá khứ hiện về trong hoài niệm. Các phép láy: đâu, đâu, mà… lặp đi lặp lại nhấn mạnh sự tiếc nuối của con hổ đối với quá khứ huy hoàng. Chúa sơn lâm dường như hoang mang, vật lộn với thực tế phũ phàng mà mình đang phải gánh chịu. Giấc mộng đẹp kết thúc bằng một tiếng thở dài u sầu:

“Chao ôi, còn đâu một thời huy hoàng?

Tuy nhân vật người kể trong bài thơ là một con hổ, tự xưng là Ta, (ta ở…, ta bước ta biết ta…) nhưng thực chất đó là cái “tôi” của nhà thơ lãng mạn thức tỉnh trong cộng đồng. nhà tù đương thời.

Đoạn bốn tả cảnh Vườn Bách thảo qua thái độ khinh khỉnh của chúa sơn lâm. Tất cả chỉ là sự sắp đặt đơn điệu, buồn tẻ, xa rời thế giới tự nhiên. Càng cố học hỏi và bắt chước cảnh hoang dã, nó càng cho thấy sự giả dối tầm thường, đáng ghét của nó:

“Nay tôi ôm mối oán ngàn thu, …………. Nơi âm u ngàn năm cao quý”.

Khung cảnh của vườn thú nơi con hổ bị giam giữ trái ngược với sự hoang dã và rừng sâu nơi nó từng ở. Cẩn hoa, cẩn cỏ, đường phẳng, cây cỏ là những hình ảnh ẩn dụ ám chỉ hiện thực xã hội đương thời. Tiếng vọng thơ thể hiện rõ tâm trạng chán chường, khinh bỉ của đại bộ phận thanh niên trí thức trước thực tế bủa vây, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.

Ở đoạn cuối, giọng thơ trữ tình đã tổng kết những cảm xúc của chúa sơn lâm:

“Hỡi bệ hạ, cảnh sơn thủy hùng vĩ! …………………….. Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta yeah!”

Nhà thơ phản ánh rất thành công nỗi bất mãn sâu sắc và khát vọng tự do mãnh liệt của chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt. Phong cách hào hoa của Thế Lữ đã đạt đến mức thần diệu. Trong cảnh nuôi nhốt, hổ chỉ biết gửi hồn vào nước non hùng vĩ, giang sơn của những địa đạo linh thiêng ngự trị từ ngàn năm trước. Bất mãn với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi gông cùm nô lệ, vị chúa sơn lâm hùng mạnh nay đã buông xuôi, tự an ủi mình bằng những ước mơ lớn lao trong suốt phần đời còn lại trong vòng nô lệ. Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn. Than ôi! Quá khứ huy hoàng giờ chỉ thấy trong mơ! Tự đáy lòng, chúa sơn lâm bật lên tiếng than thở: Ôi khu rừng khủng khiếp của tôi!

Xem thêm bài viết hay:  Phân tích hình tượng chiếc thuyền ngoài xa hay nhất

Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của những người dân Việt Nam đang sống trong thân phận nô lệ, tủi nhục và bị giam cầm, cũng mang trong mình một nỗi căm thù và hoài niệm khôn nguôi về một thời oanh liệt với những chiến công chống giặc. ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Vì chạm đến sâu thẳm lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt.

Tác giả mượn lời con hổ bị nhốt trong lồng sắt để thể hiện đầy đủ và sâu sắc tâm trạng u uất của thế hệ trẻ trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, bất mãn và khinh bỉ tột độ. hiện thực bất công, ngột ngạt của xã hội đương thời. Họ muốn phá bỏ xiềng xích nô lệ để cái “tôi” tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người khi đọc bài thơ Nhớ rừng có cảm giác tác giả đã nói thay họ nỗi khổ của thân phận nô lệ. Ở một khía cạnh nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối dòng thơ trữ tình yêu nước trong văn học luật đầu thế kỉ XX.

Thế Lữ đã chọn một hình ảnh độc đáo phù hợp để thể hiện chủ đề bài thơ. Con vật oai vệ được coi là chúa sơn lâm, một thời huy hoàng hiển hách nơi nước non oai hùng, nay bị giam cầm tù đày, tượng trưng cho kẻ anh hùng bại trận. Vùng đất hoang vu rộng lớn tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh hàm chứa ý nghĩa sâu xa ấy, Thế Lữ rất thuận lợi trong việc truyền tải những cảm xúc trước thời đại của mình qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt đến trình độ điêu luyện, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc sôi nổi hào hùng, lúc trầm lắng bi tráng, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.

Đoạn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn, cảm hứng thơ tràn đầy dưới ngòi bút của nhà thơ. Đây là đặc điểm tiêu biểu của phong cách viết lãng mạn và cũng là yếu tố cốt lõi tạo nên sức hút mạnh mẽ, chi phối các yếu tố nghệ thuật khác của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng sống mãi trong lòng người đọc. Nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ đến rừng. Là nhà thơ, chỉ cần thế là đủ sung sướng, hạnh phúc và mãn nguyện.

Xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh, phân tích, lập kế hoạch tác phẩm lớp 8:

Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 8 theo từng phần:

nho-rung.jsp

Các bài văn lớp 8 khác

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: Giải Đáp Câu Hỏi